Cách thiết lập lãi suất mục tiêu trong chính sach tài tiền tệ
Qua phân tích cho thấy, NHTW các nƣớc đều quy định khung pháp lý CSTT rõ ràng, xác định một loại lãi suất cụ thể làm LSCS, trên cơ sở đó hoạch định và điều hành CSTT để đảm bảo đạt đƣợc mục tiêu cuối cùng. Sự thay đổi về LSCS đƣợc truyền tải thông qua hoạt động đấu thầu OMOs hàng ngày để tác động trực tiếp đến lãi suất trên thị trƣờng (nhƣ lãi suất cho vay/tiền gửi và các loại lãi suất trên thị trƣờng tiền tệ) và VKD của các ngân hàng, tác động gián tiếp đến tỷ giá. LSMT/LSCS đƣợc định hƣớng trong phạm vi hành lang lãi suất và bị ràng buộc bởi tần suất hoạt động trên OMOs (tần suất nhiều sẽ tránh đƣợc biến động lớn về lãi suất ngắn hạn).
Tuy nhiên, lựa chọn LSMT trong điều hành CSTT giữa các quốc gia cũng có sự khác nhau về kỳ hạn, chẳng hạn, tại Malaysia, Philippines,… LSMT là lãi suất trên OMOs với kì hạn từ 1 tuần đến 3 tháng; ECB cũng lựa chọn lãi suất tái cấp vốn chính (MRO) đóng vai trò LSMT. Một số quốc gia lựa chọn lãi suất O/N trên TTLNH vừa làm LSMT (Mỹ, Hàn Quốc). Thực tế cho thấy, điều hành CSTT của các quốc gia sử dụng LSMT là lãi suất LNH kỳ hạn ngắn hơn ( nhƣ O/N, 1 tuần) đã có đƣợc thành công trong việc giữ ổn định giá cả, duy trì tăng trƣởng kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm do NHTW vừa có thể kiểm soát linh hoạt, đảm bảo lãi suất vận hành theo cơ chế thị trường, vừa giảm thiểu đƣợc tác động tâm lý đến thị trƣờng khi cần điều chỉnh.